Băng ở Nam Cực được hình thành cách đây ít nhất 20,000 năm và hiện tại đã dày đến hàng nghìn mét. Lượng băng này chiếm đến 85% tổng số nước ngọt trên Trái đất. Ở những chỗ rìa mép, những tảng băng nứt rời ra rồi trôi theo dòng hải lưu đến những vùng khí hậu ấm hơn. Một tảng băng trôi có thể rộng đến 4 km2 . Trong các cơn bão vào mùa đông, tốc độ gió thổi lên đến 400 km/h. Vùng đất với cái lạnh không thể tưởng tượng nổi này lẽ ra là hoàn toàn không thể tồn tại sự sống.
 
Tuy nhiên sự sống vẫn tồn tại trong điều kiện thời tiết tưởng như không thể này. Trong làn nước lạnh cóng của vùng biển Nam Cực có những thực vật nhỏ xíu. Cứ mỗi mùa hè chúng lại hấp thụ ánh nắng mặt trời gần như 24h một ngày trong suốt 2 tháng. Vào thời điểm này, vùng biển Nam Cực trở thành vùng biển giàu khả năng tái tạo sự sống nhất trên thế giới. Những thực vật nhỏ xíu này là nguồn cung cấp thức ăn cho hàng triệu những loài tôm, sò nhỏ, là những động vật biển có chiều dài nhỏ hơn 8cm. Những loài tôm, sò nhỏ này lại là nguồn cung cấp thức ăn cho các loại chim biển, cá, hải cẩu, cá voi và chim cánh cụt.
 
Từ năm 1958, các nhà khoa học đến từ nhiều nước đã và đang cùng nhau làm việc trong “căn phòng thí nghiệm” rộng lớn này. Nam Cực chính là vùng lãnh thổ đầu tiên trên thế giới được sử dụng hoàn toàn cho các mục đích hòa bình. Ngày nay có hơn 30 trạm thí nghiệm ở Nam Cực, bao gồm của các nước Achentina, Australia, Chile, Đức, Anh, Ý, Nhật Bản, Niu Dilan, Nga và Hoa Kỳ.
 
Nhận thức được ảnh hưởng quan trọng của vùng đất băng rộng lớn này đến toàn khí hậu thế giới, các nhà khoa học đang cố gắng để tìm hiểu nguyên nhân. Rất nhiều nghiên cứu tập trung vào vấn đề ozone, một dạng của khí ôxy. Tầng ozone bảo vệ các sinh vật sống khỏi tác hại của tia nắng Mặt trời. Đến giữa những năm 80 các nhà khoa học mới phát hiện ra rằng tầng ozone ở trên Nam Cực rất mỏng. Họ gọi đó là “lỗ thủng tầng ozone”.
 
Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng từ năm 1970 nhiệt độ không khí và nước ở Nam Cực đang dần tăng lên. Nhiệt độ ấm hơn dẫn đến ít băng hơn trong các tháng mùa đông. Các nhà khoa học cho rằng một số loại chim cánh cụt đang ít dần về số lượng: những sinh vật miền Nam Cực này không có đủ băng để tồn tại. Các nhà khoa học cũng dần nhận ra rằng băng từ nước biển vào mùa đông đóng vai trò rất quan trọng đối với chuỗi sinh học của sự sống.
 
Các loài tôm, sò nhỏ là mắt xích then chốt trong chuỗi sinh học ở Nam Cực. Các loài động vật khác phụ thuộc vào chúng để có thức ăn. Trên thực tế, loài người hiện nay cũng ăn các loài tôm, sò nhỏ này. Những động vật nhỏ bé này có chứa protein, thứ mà tất cả ai trong chúng ta cũng đều cần. Đánh bắt tôm, sò nhỏ đã trở thành một ngành công nghiệp lớn ở Nam Cực. Khoảng 500,000 tấn m3 ­ tôm, sò nhỏ đã bị đánh bắt và dùng cho mục đích thương mại năm 1993. các nhà khoa học dự đoán rằng con số này chỉ chiếm khoảng 1% tổng số lượng tôm, sò nhỏ ở Nam Cực. Tuy nhiên, họ không biết được con số chính xác lượng tôm, sò nhỏ có thể được khai thác một cách an toàn mà không phá vỡ chuỗi sinh học. Ví dụ, vì chim cánh cụt ăn tôm, sò nhỏ nên số lượng ít đi của các loại tôm, sò nhỏ có thể là một nguyên nhân khác dẫn đến sự suy giảm của loài chim cánh cụt.
( còn tiếp)